Thông tư 4-PC/TT

Thông tư 4-PC/TT-1985 hướng dẫn thi hành Nghị quyết 156-HĐBT-1984 về cải tiến quản lý công nghiệp quốc doanh và Quyết định 162-HĐBT-1984 của HĐBT về tổ chức hoạt động liên kết trong kinh tế do Trọng tài kinh tế Nhà nước ban hành

Nội dung toàn văn Thông tư 4-PC/TT tổ chức hoạt động liên kết trong kinh tế hướng dẫn Nghị quyết 156-HĐBT cải tiến quản lý công nghiệp quốc doanh Quyết định 162-HĐBT


TRỌNG TÀI KINH TẾ NHÀ NƯỚC
********

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********

Số: 4-PC/TT

Hà Nội, ngày 16 tháng 2 năm 1985

 

THÔNG TƯ

CỦA TRỌNG TÀI KINH TẾ NHÀ NƯỚC SỐ 4-PC/TT NGÀY 16 THÁNG 2 NĂM 1985 HƯỚNG DẪN THI HÀNH NGHỊ QUYẾT SỐ 156-HĐBT NGÀY 30-11-1984 CỦA HỘI ĐỒNG BỘ TRƯỞNG VỀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ CẢI TIẾN QUẢN LÝ CÔNG NGHIỆP QUỐC DOANH VÀ QUYẾT ĐỊNH SỐ 162-HĐBT NGÀY 14-12-1984 CỦA HỘI ĐỒNG BỘ TRƯỞNG VỀ TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG LIÊN KẾT TRONG KINH TẾ

Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành trung ương Đảng (khoá V) đã có những quyết định quan trọng về cải tiến cơ chế quản lý kinh tế. Trên cơ sở lấy kế hoạch làm công cụ trung tâm, gắn kế hoạch với hạch toán kinh tế và kinh doanh xã hội chủ nghĩa, cơ chế quản lý kinh tế mới mở rộng quyền chủ động sáng tạo của các cơ sở, mở rộng hoạt liên kết trong kinh tế, nhằm phát huy mọi khả năng để phát triển sản xuất ở cơ sở đạt năng suất, chất lượng và hiệu quả ngày càng cao.

Nhằm thể chế hoá Nghị quyết hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương, Hội đồng Bộ trưởng đã ra Nghị quyết số 156-HĐBT ngày 30-11-1984 về một số vấn đề cải tiến quản lý công nghiệp quốc doanh và Quyết định số 162-HĐBT ngày 14-12-1984 về tổ chức hoạt động liên kết trong kinh tế.

Trong lĩnh vực hợp đồng kinh tế và trọng tài kinh tế, Trọng tài kinh tế Nhà nước ra thông tư hướng dẫn thi hành các nghị quyết và quyết định nói trên của Hội đồng Bộ trưởng như sau:

I. KÝ KẾT VÀ THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG KINH TẾ THEO CHỈ TIÊU PHÁP LỆNH

Hợp đồng kinh tế là công cụ để hình thành, cụ thể hoá và thực hiện kế hoạch. Cơ chế quản lý mới phát huy tính năng động, sáng tạo của cơ sở trong việc khai thác mọi nguồn khả năng để bảo đảm thực hiện chỉ tiêu pháp lệnh, đồng thời khuyến khích cơ sở sản xuất sản phẩm ngoài chỉ tiêu pháp lệnh nhằm làm ra nhiều của cải cho xã hội. Do vậy, có hợp đồng ký kết để thực hiện chỉ tiêu pháp lệnh (gọi tắt là hợp đồng theo chỉ tiêu pháp lệnh ) và hợp đồng ký kết để sản xuất và trao đổi sản phẩm ngoài chỉ tiêu pháp lệnh (gọi tắt là hợp đồng ngoài chỉ tiêu pháp lệnh).

Hợp đồng theo chỉ tiêu pháp lệnh là hợp đồng ký kết giữa các đơn vị cơ sở, nhằm bảo đảm thực hiện các chỉ tiêu pháp lệnh của Nhà nước do các Bộ, Tổng cục, Uỷ ban Nhân dân các tỉnh, thành phố, đặc khu trực thuộc Trung ương cụ thể hoá và phân bổ cho các liên hiệp xí nghiệp, tổng công ty, công ty, xí nghiệp liên hợp, xí nghiệp trực thuộc (nếu là cơ sở thuộc Bộ, Tổng cục quản lý), các Sở quản lý ngành, Uỷ ban Nhân dân huyện, quận (nếu là cơ sở thuộc tỉnh, thành phố hoặc huyện, quận quản lý).

Hợp đồng ngoài chỉ tiêu pháp lệnh là hợp đồng ký kết giữa các đơn vị cơ sở thông qua hoạt động liên kết kinh tế nhằm sản xuất và trao đổi sản phẩm ngoài chỉ tiêu pháp lệnh.

Việc ký kết và thực hiện hợp đồng kinh tế theo chỉ tiêu pháp lệnh phải gắn liền với trình tự xây dựng và thực hiện kế hoạch, cụ thể là:

1. Trong quý II và quý III năm trước của năm kế hoạch, xí nghiệp căn cứ vào các yêu cầu và con số hướng dẫn của cơ quan quản lý cấp trên thông báo, vào nhu cầu thị trường, khả năng tiêu thụ và các nguồn vật tư có thể khai thác được bàn bạc và ký các hợp đồng kinh tế làm cơ sở cho việc xây dựng kế hoạch. Việc xây dựng dự án kế hoạch của xí nghiệp phải dựa trên cơ sở các hợp đồng kinh tế đã ký hoặc dự định ký để bảo đảm cân đối giữa khả năng cung ứng, tìm kiếm vật tư và nhu cầu tiêu thụ sản phẩm, khi bảo vệ kế hoạch với cơ quan quản lý cấp trên, xí nghiệp xuất trình những hợp đồng kinh tế đã ký và dự định ký để làm cơ sở cho việc xét duyệt kế hoạch và giao chỉ tiêu pháp lệnh cho xí nghiệp.

2. Trong tháng 12 năm trước của năm kế hoạch, sau khi được cơ quan quản lý cấp trên chính thức giao chỉ tiêu pháp lệnh, xí nghiệp kịp thời bàn bạc với các đơn vị liên quan để điều chỉnh lại hợp đồng kinh tế đã ký và ký các hợp đồng kinh tế mới. Việc điều chỉnh hợp đồng và ký hợp đồng mới phải bảo đảm thực hiện các chỉ tiêu pháp lệnh được giao. Trong trường hợp đã cố gắng đến mức cao nhất mà vẫn không có khả năng và điều kiện vật chất để ký hợp đồng bảo đảm thực hiện một chỉ tiêu pháp lệnh nào đó, thì xí nghiệp phải báo cáo cụ thể với cơ quan quản lý cấp trên trực tiếp để có sự can thiệp, nhằm tạo điều kiện cần thiết cho xí nghiệp ký hợp đồng bảo đảm thực hiện chỉ tiêu pháp lệnh đó. Chậm nhất là trong tháng 1 của năm kế hoạch, xí nghiệp tranh thủ cùng các tổ chức cung ứng vật tư, năng lượng, các tổ chức tiêu thụ, vận tải, dịch vụ... hoàn thành việc ký kết các hợp đồng kinh tế theo chỉ tiêu pháp lệnh.

3. Trong quá trình thực hiện kế hoạch và hợp đồng, nếu xuất hiện những nhu cầu và khả năng cần đổi mới thông qua liên kết kinh tế, xí nghiệp tiến hành ký kết các hợp đồng kinh tế mới nhằm hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu pháp lệnh.

Trường hợp vì lý do khách quan, sau khi tìm mọi biện pháp khắc phục vẫn không có khả năng thực hiện các chỉ tiêu pháp lệnh, thì xí nghiệp báo cáo lên cơ quan quản lý cấp trên xin điều chỉnh vào đầu quý III của năm kế hoạch. Sau khi có quyết định của cơ quan quản lý cấp trên có thẩm quyền về việc điều chỉnh chỉ tiêu pháp lệnh, xí nghiệp phải kịp thời bàn bạc với các đơn vị liên quan điều chỉnh lại các hợp đồng đã ký.

4. Chậm nhất là 20 ngày kể từ ngày hết hiệu lực của hợp đồng, xí nghiệp phải cùng với bên liên quan thanh lý và quyết toán thực hiện hợp đồng. Khi thanh lý và quyết toán thực hiện hợp đồng, xí nghiệp phải kiểm điểm việc thực hiện các điều khoản của hợp đồng nhất là các điều khoản về số lượng, chất lượng, giá cả, thời gian, địa điểm thanh toán; đồng thời xác định bên nào còn nợ của nhau về sản phẩm, vật tư, tiền vốn và thoả thuận về thời gian trả xong nợ. Nếu quá thời hạn trả nợ mà không chịu trả thì bên đương sự khiếu nại đến cơ quan trọng tài kinh tế có thẩm quyền để xét xử theo pháp luật về hợp đồng kinh tế. Cần kết hợp việc thanh lý và quyết toán hợp đồng với hạch toán kinh tế, phân tích hiệu quả của sản xuất kinh doanh, đối chiếu số vật tư chi phí bỏ ra với số lượng, chất lượng sản phẩm sản xuất được và giao nộp cùng với lợi nhuận và các khoản nộp ngân sách.

Việc thanh lý và quyết toán thực hiện hợp đồng phải được ghi vào biên bản do đại diện có thẩm quyền của các bên ký. Trên cơ sở thanh lý và quyết toán thực hiện hợp đồng, cơ quan quản lý cấp trên xét duyệt hoàn thành kế hoạch của xí nghiệp. Kết quả thực hiện hợp đồng là một căn cứ quan trọng để xác nhận việc hoàn thành các chỉ tiêu pháp lệnh.

5. Mọi việc trì hoãn, từ chối ký kết hợp đồng kinh tế sau khi có số hướng dẫn kế hoạch, hoặc có chỉ tiêu pháp lệnh, việc ký thấp hơn chỉ tiêu pháp lệnh, ký kéo dài kỳ hạn thực hiện chỉ tiêu pháp lệnh, việc tùy tiện điều chỉnh hoặc huỷ bỏ hợp đồng đã ký, không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ và nghiêm chỉnh hợp đồng kinh tế đã ký kết đều bị coi là vi phạm chế độ hợp đồng kinh tế và đều do cơ quan trọng tài kinh xét xử theo thẩm quyền quy định của Hội đồng Bộ trưởng.

II. KÝ KẾT VÀ THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG KINH TẾ NGOÀI CHỈ TIÊU PHÁP LỆNH

Việc ký kết và thực hiện hợp đồng kinh tế ngoài chỉ tiêu pháp lệnh không nhất thiết theo trình tự các bước của kế hoạch hoá như đã quy định ở phần I trên đây mà nó được xây dựng và ký kết thông qua hoạt động liên kết kinh tế trong quá trình xây dựng kế hoạch và thực hiện kế hoạch trong cả năm.

Mọi hoạt động liên kết kinh tế phải thể hiện trong kế hoạch của cơ sở và phải thông qua việc ký kết và thực hiện hợp đồng kinh tế.

1. Các xí nghiệp, cơ quan thiết kế, cơ sở nghiên cứu và triển khai kỹ thuật, các hợp tác xã, tập đoàn sản xuất nông nghiệp phải có tư cách pháp nhân thì mới được tiến hành những hoạt động liên kết kinh tế và ký hợp đồng. Riêng các tổ hợp tác sản xuất tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp và hộ kinh doanh tư nhân phải có hai điều kiện là được phép kinh doanh và có tài khoản ở ngân hàng thì mới được tiến hành những hoạt động liên kết kinh tế và ký hợp đồng.

Các Bộ, Tổng cục, Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố và đặc khu trực thuộc Trung ương có trách nhiệm chỉ đạo, hướng dẫn kiểm tra việc thực hiện kế hoạch liên kết kinh tế của các đơn vị kinh doanh trực thuộc; đồng thời phải phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời những việc làm trái với quy chế liên kết kinh tế làm ảnh hưởng đến việc thực hiện kế hoạch nhà nước và gây khó khăn cho việc quản lý kinh tế, tài chính, thị trường, giá cả.

2. Nghiêm cấm dùng vật tư, hàng hoá của Nhà nước được phân phối theo kế hoạch để sản xuất sản phẩm ngoài chỉ tiêu pháp lệnh, hoặc trao đổi lấy chênh lệch giá; không được tự ý rút bớt sản phẩm thuộc phần nghĩa vụ Nhà nước giao về thu mua, giao nộp sản phẩm và hàng xuất khẩu để trao đổi với nhau. Việc sản xuất và trao đổi sản phẩm ngoài chỉ tiêu pháp lệnh phải được thể hiện trong kế hoạch của xí nghiệp và được sự chỉ đạo của cơ quan quản lý cấp trên theo đúng chế độ quy định của Nhà nước.

3. Để sản xuất và trao đổi sản phẩm ngoài chỉ tiêu pháp lệnh, xí nghiệp tiến hành ký kết hợp đồng kinh tế với các bên liên quan, nhưng không được làm ảnh hưởng đến việc thực hiện chỉ tiêu pháp lệnh và không được trái với các chính sách pháp luật của Nhà nước.

Hợp đồng ngoài chỉ tiêu pháp lệnh được ký kết trên cơ sở tự nguyện, thoả thuận giữ đôi bên và cùng có lợi. Nội dung hợp đồng ngoài chỉ tiêu pháp lệnh cũng phải bao gồm những điều khoản chủ yếu như số lượng sản phẩm hoặc công việc giao dịch; chất lượng sản phẩm hoặc công việc; thời gian địa điểm giao nhận; giá cả; thể thức thanh toán; thưởng phạt vật chất; thời gian, có hiệu lực của hợp đồng. Các bên cần dựa vào chính sách và pháp luật về quản lý kinh tế của Nhà nước mà vận dụng vào việc ký kết hợp đồng này trên nguyên tắc đảm bảo chấp hành nghiêm chỉnh các quy định của Nhà nước về quản lý thị trường, tài chính, tiền tệ, giá cả.

Riêng điều khoản về thưởng, phạt vật chất, các bên có thể thoả thuận quy định như sau: về thưởng vật chất, các bên có thể thoả thuận ghi trong hợp đồng một số tiền nhất định để thưởng cho bên nào hoàn thành tốt hợp đồng. Về phạt vật chất, các bên có thể thoả thuận áp dụng thi hành chế tài vật chất theo các quy định của Nhà nước về chế độ hợp đồng kinh tế, hoặc là thoả thuận ghi trong hợp đồng một số tiền phạt, tiền bồi thường phải trả khi xảy ra vi phạm.

4. Trong trường hợp xảy ra tranh chấp hoặc vi phạm hợp đồng ngoài chỉ tiêu pháp lệnh, nếu các bên đã bàn bạc giải quyết nhưng không đạt kết quả, thì khiếu nại kịp thời đến cơ quan trọng tài kinh tế có thẩm quyền để xét xử. Khi xét xử, trọng tài kinh tế căn cứ vào nội dung bản hợp đồng, mức độ vi phạm và gây thiệt hại, chế tài vật chất mà các bên thoả thuận, đồng thời căn cứ vào chính sách, pháp luật của Nhà nước để có những quyết định đúng đắn trên cơ sở bảo vệ lợi ích hợp pháp của các bên ký kết hợp đồng kinh tế.

Nếu các bên đương sự không chịu khiếu nại mà qua thanh tra, kiểm tra hoặc các nguồn thông tin khác, cơ quan trọng tài kinh tế phát hiện và chủ động đưa ra xét xử, thì bên bị vi phạm có thể không được hưởng tiền bồi thường như đã thoả thuận ghi trong hợp đồng, toàn bộ hoặc một phần tiền bồi thường phải nộp vào ngân sách Nhà nước.

III. KÝ KẾT VÀ THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG CUNG ỨNG VẬT TƯ, HỢP ĐỒNG TIÊU THỤ SẢN PHẨM

Trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, các cơ sở sử dụng nhiều loại hợp đồng kinh tế như hợp đồng cung ứng vật tư, hợp đồng tiêu thụ sản phẩm, hợp đồng nghiên cứu khoa học và triển khai kỹ thuật, hợp đồng giao nhận thầu thiết kế, hợp đồng giao nhận thầu xây lắp, hợp đồng vận tải, hợp đồng gia công đặt hàng... Mỗi loại hợp đồng kinh tế có tính chất quan trọng của nó. Thông tư này đi sâu hướng dẫn nội dung hai loại hợp đồng sau đây là những loại hợp đồng có liên quan mật thiết nhất đến việc thực hiện Nghị quyết số 156-HĐBT và Quyết định số 162-HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng.

1. Hợp đồng cung ứng vật tư.

Các tổ chức cung ứng vật tư (kể cả tổ chức nhập khẩu vật tư) phải bảo đảm cung ứng vật tư chủ yếu, những vật tư phụ trợ quan trọng cho xí nghiệp theo đúng chỉ tiêu pháp lệnh và theo đúng các điều khoản về số lượng, chủng loại, quy cách và phẩm chất, giá cả, thời gian, địa điểm quy định trong hợp đồng. Xí nghiệp và các tổ chức cung ứng vật tư cùng nhau cam kết ghi trong các bản hợp đồng việc trích thưởng hoặc phạt vật chất theo kết quả thực hiện kế hoạch và hợp đồng.

Các tổ chức cung ứng giao vật tư tại những địa điểm thuận tiện cho sản xuất trong phạm vi lãnh thổ của tỉnh, thành phố. Nếu gặp trường hợp khó khăn về phương tiện vận chuyển từ nguồn vật tư đến địa điểm thuận tiện trong tỉnh, thành phố, trong khi xí nghiệp có khả năng phương tiện, thì tổ chức cung ứng có thể thoả thuận ký hợp đồng với xí nghiệp theo nội dung là xí nghiệp tự vận tải và bên cung ứng phải trả lại chi phí vận tải cho xí nghiệp.

Đối với một số loại vật tư mà xí nghiệp có nhu cầu nhiều và ổn định, có đủ kho, bãi tiếp nhận hàng, có đường giao thông thuận tiện, thi các bên có thể thoả thuận giao nhận vật tư tại địa điểm của xí nghiệp.

Đối với vật tư được Nhà nước cung ứng thì khi ký kết và thực hiện hợp đồng, các bên phải theo đúng giá chỉ đạo của Nhà nước. Đối với vật tư do xí nghiệp tự kiếm từ 3 nguồn nguyên liệu nông sản, lâm sản, hải sản dư thừa sau khi hoàn thành kế hoạch bán sản phẩm cho Nhà nước; nguồn vay ngoại tệ của Ngân hàng hoặc do xuất khẩu (sau khi hoàn thành kế hoạch giao nộp sản phẩm trong đó có phần xuất khẩu Nhà nước giao) để nhập vật tư nguyên liệu cho sản xuất; nguồn phế liệu, phế phẩm của xí nghiệp thì giá cả ghi trong hợp đồng theo giá thực mua trong khung giá do cơ quan có thẩm quyền quy định.

Trong trường hợp không cung ứng được vật tư theo kế hoạch và hợp đồng do những nguyên nhân khách quan không thể khắc phục nổi thì tổ chức cung ứng phải thông báo trước 1 tháng cho xí nghiệp, đồng thời báo cáo với cơ quan quản lý cấp trên xem xét để có sự điều chỉnh cần thiết. Nếu kế hoạch cung ứng vật tư được cơ quan quản lý cấp trên có thẩm quyền cho phép điều chỉnh thì tổ chức cung ứng phải bàn bạc với xí nghiệp để điều chỉnh lại hợp đồng đã ký.

2. Hợp đồng tiêu thụ sản phẩm.

a) Xí nghiệp ký kết hợp đồng tiêu thụ sản phẩm với các tổ chức lưu thông hàng hoá, vật tư của Nhà nước, hoặc các hộ tiêu thụ được chỉ định theo chỉ tiêu pháp lệnh, và phải giao nộp đầy đủ sản phẩm theo kế hoạch và hợp đồng. Các bên liên quan phải bàn bạc và quy định cụ thể nội dung các điều khoản của hợp đồng (bao gồm các điều khoản về số lượng, chất lượng, thời gian và địa điểm giao nhận, giá cả, thanh toán ). Để đảm bảo lợi ích chính đáng của người tiêu thụ, khi ký kết và thực hiện hợp đồng tiêu thụ sản phẩm, các bên phải đặc biệt coi trọng điều khoản về chất lượng sản phẩm hiện đang là khâu yếu. Nếu giao hàng không đúng quy cách, phẩm chất thì xí nghiệp phải sửa chữa lại và chịu mọi chi phí về việc sửa chữa hàng kém phẩm chất. Trường hợp chất lượng sản phẩm không đảm bảo nhưng có giá trị sử dụng, thì phải giảm giá tương ứng.

Hợp đồng tiêu thụ sản phẩm được ký cả năm và phân ra từng quý theo tiến độ của kế hoạch sản xuất, có tính đến khả năng tiêu thụ của thị trường và do hai bên bàn bạc thoả thuận. Trong quá trình thực hiện hợp đồng, các bên có thể thoả thuận điều chỉnh giữa các quý trong năm.

b) Các tổ chức tiêu thụ sản phẩm của xí nghiệp phải nhận sản phẩm theo đúng kế hoạch và hợp đồng. Nếu tổ chức tiêu thụ không nhận sản phẩm theo hợp đồng đã ký mà không có lý do chính đáng, thì tổ chức tiêu thụ đó phải thi hành đầy đủ hợp đồng trên, đồng thời phải chịu phạt vi phạm hợp đồng và bồi thường thiệt hại gây ra cho xí nghiệp. Trong trường hợp tổ chức tiêu thụ gặp khó khăn khách quan không thể nhận hàng được, thì xí nghiệp phải báo cáo ngay với cơ quan quản lý cấp trên của mình để giải quyết. Nếu cơ quan quản lý cấp trên của xí nghiệp không giải quyết thì xí nghiệp phải kịp thời báo cáo với cơ quan trọng tài kinh tế có thẩm quyền. Sau khi cơ quan trọng tài kinh tế xác nhận và quyết định, xí nghiệp được ký kết và thực hiện hợp đồng tiêu thụ với cơ quan, xí nghiệp khác. Đối với các sản phẩm tươi sống, khó bảo quản, nếu gặp trường hợp kể trên, xí nghiệp phải tổ chức tiêu thụ ngay không để hư hỏng, lãng phí, đồng thời phải báo ngay với cơ quan trọng tài kinh tế có thẩm quyền để kịp thời có quyết định giải quyết vấn đề này.

c) Các hợp tác xã, tập đoàn sản xuất nông nghiệp ký kết hợp đồng bán nông sản, lâm sản, hải sản với các tổ chức kinh tế của Nhà nước theo đúng chỉ tiêu pháp lệnh được giao. Đồng thời được Nhà nước cung ứng trở lại theo chỉ tiêu pháp lệnh những vật tư kỹ thuật cần thiết để phục vụ sản xuất. Việc bán sản phẩm và cung ứng vật tư trên đây theo chỉ tiêu pháp lệnh đều được hiện thông qua ký kết và thực hiện hợp đồng kinh tế hai chiều về sản xuất, thu mua nông, lâm, hải sản.

d) Việc ký kết và thực hiện hợp đồng tiêu thụ sản phẩm ngoài chỉ tiêu pháp lệnh được quy định như sau:

- Đối với sản phẩm của xí nghiệp.

Phần sản phẩm chủ yếu của xí nghiệp làm bằng vật tư tự kiếm dành để đối lưu lấy vật tư cho sản xuất phải có kế hoạch được cơ quan quản lý cấp trên duỵệt và phải thông qua việc ký kết và thực hiện hợp đồng ngoài chỉ tiêu pháp lệnh như đã quy định ở phần II của thông tư này. Hợp đồng đối lưu nay có thể ký thành hai bản hợp đồng là hợp đồng mua và hợp đồng bán, hoặc là ký chung vào một bản hợp đồng trong đó có điều khoản mua và điều khoản bán tính giá trị bằng tiền và đều phải thanh toán qua ngân hàng. Không được sử dụng hợp đồng để trao đổi hiện vật, hàng đổi hàng với nhau.

Đối với sản phẩm của sản xuất phụ, xí nghiệp cũng phải ký hợp đồng tiêu thụ với các tổ chức tiêu thụ của Nhà nước hoặc với hợp tác xã mua bán theo giá thoả thuận. Trong trường hợp các tổ chức tiêu thụ và hợp tác này từ chối ký hợp đồng do không có điều kiện tiêu thụ sản phẩm ngoài chỉ tiêu pháp lệnh được, thì xí nghiệp được quyền bán thẳng cho các hộ tiêu thụ khác.

- Đối với sản phẩm của hợp tác xã, tập đoàn sản xuất.

Theo sự chỉ đạo của cấp huyện, các hợp tác xã, tập đoàn sản xuất ký kết hợp đồng với các tổ chức thu mua của Nhà nước, trong đó ngoài phần bán sản phẩm cho Nhà nước theo chỉ tiêu pháp lệnh và theo giá chỉ đạo còn có phần bán sản phẩm ngoài chỉ tiêu pháp lệnh theo giá thoả thuận trong khung giá được cơ quan có thẩm quyền quy định. Ngoài ra, nếu còn số sản phẩm dư thừa thì hợp tác xã, tập đoàn sản xuất có thể tiến hành liên kết kinh tế với các đơn vị kinh doanh của Nhà nước có liên quan. Hoạt động liên kết kinh tế trên đây được thực hiện thông qua ký kết và thực hiện hợp đồng ngoài chỉ tiêu pháp lệnh như đã quy định ở phần II của Thông tư này.

IV. QUẢN LÝ HỢP ĐỒNG THEO CHỈ TIÊU PHÁP LỆNH VÀ NGOÀI CHỈ TIÊU PHÁP LỆNH

1. Hợp đồng ký kết giữa quốc doanh với quốc doanh.

a) Đối với hợp đồng cung ứng vật tư và hợp đồng tiêu thụ sản phẩm ký cả năm theo chỉ tiêu pháp lệnh giữa quốc doanh với quốc doanh (hai loại hợp đồng có quan hệ trực tiếp đến việc hoàn thành kế hoạch sản xuất của xí nghiệp), thì ngay sau khi hợp đồng được ký kết, xí nghiệp phải gửi các bản hợp đồng đó đến cơ quan trọng tài kinh tế có thẩm quyền để đăng ký và theo dõi, nếu là xí nghiệp thuộc Bộ, Tổng cục quản lý thì gửi hợp đồng đến trọng tài kinh tế Bộ, Tổng cục; nếu là xí nghệp thuộc tỉnh, thành phố, huyện, quận quản lý thì gửi hợp đồng đến trọng tài kinh tế tỉnh, thành phố hoặc huyện, quận.

b) Đối với hợp đồng cung ứng vật tư và hợp đồng tiêu thụ sản phẩm ngoài chỉ tiêu pháp lệnh nhưng thuộc danh mục mặt hàng Nhà nước thống nhất quản lý, ký kết giữa quốc doanh với quốc doanh, bất kể là hợp đồng ký theo tháng, quý, mùa vụ hoặc cả năm thì ngay sau khi hợp đồng được ký kết, xí nghiệp là bên cung ứng vật tư hoặc bán sản phẩm phải gửi bản hợp đồng đó đến cơ quan quản lý cấp trên trực tiếp của mình xem xét; cụ thể, nếu là xí nghiệp thuộc Bộ, Tổng cục quản lý thì gửi hợp đồng đến liên hiệp các xí nghiệp, tổng công ty, công ty... trực thuộc Bộ, Tổng cục; nếu là xí nghiệp thuộc tỉnh, thành phố quản lý thì gửi hợp đồng đến sở quản lý ngành hoặc liên hiệp các xí nghiệp trực thuộc tỉnh, thành phố; nếu là xí nghiệp thuộc huyện, quận quản lý thì gửi hợp đồng đến phòng, ban chuyên môn trực thuộc huyện, quận. Khi nhận được bản hợp đồng, cơ quan quản lý cấp trên trực tiếp của xí nghiệp cần đặc biệt lưu ý đến điều khoản về cung ứng vật tư hoặc bán sản phẩm, xem có lấy vật tư Nhà nước cung ứng, hoặc rút bớt chỉ tiêu pháp lệnh về thu mua, giao nộp sản phẩm để tiến hành liên kết kinh tế ngoài chỉ tiêu pháp lệnh không. Nếu thấy việc mua bán vật tư, sản phẩm ghi trong hợp đồng là hợp pháp hoặc là không đúng với các quy định của pháp luật, thì thủ trưởng hoặc phó thủ trưởng cơ quan quản lý cấp trên của xí nghiệp phải ghi rõ ý kiến nhận xét của mình vào bản hợp đồng.

Sau khi có ý kiến của cơ quan quản lý cấp trên về bản hợp đồng, xí nghiệp là bên cung ứng vật tư hoặc bán sản phẩm phải gửi ngay bản hợp đồng đó đến có quan trọng tài kinh tế có thẩm quyền quy định ở điểm 1, phần V của Thông tư này để đăng ký và theo dõi.

2. Hợp đồng ký kết giữa quốc doanh với các tổ chức kinh tế tập thể hoặc hộ kinh doanh tư nhân.

Đối với hợp đồng gia công đặt hàng hoặc bán nguyên liệu, thu mua thành phẩm thuộc tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp và hợp đồng kinh tế hai chiều về sản xuất, thu mua nông, lâm, hải sản ký theo chỉ tiêu pháp lệnh hay ngoài chỉ tiêu pháp lệnh nhưng thuộc danh mục mặt hàng Nhà nước thống nhất quản lý, giữa một bên là quốc doanh (bao gồm quốc doanh của Trung ương, của tỉnh, thành phố hoặc của huyện, quận) và một bên là hợp tác xã tập đoàn sản xuất nông nghiệp, tổ hợp tác sản xuất tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp hoặc hộ kinh doanh tư nhân, thì ngay sau khi hợp đồng được ký kết, xí nghiệp hoặc công ty kinh doanh của Nhà nước phải gửi các bản hợp đồng đó đến trọng tài kinh tế huyện, quận nơi quản lý các tổ chức kinh tế tập thể và hộ kinh doanh tư nhân nói trên, để đăng ký và theo dõi... Trường hợp huyện, quận chưa có trọng tài kinh tế, thì xí nghiệp hoặc công ty phải gửi các bản hợp đồng đó đến Uỷ ban Nhân dân huyện, quận để đăng ký theo dõi.

Thể thức đăng ký các bản hợp đồng này do Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố, đặc khu trực thuộc Trung ương căn cứ vào tình hình thực tế của địa phương mà quy định cho thích hợp, bảo đảm việc đăng ký được kịp thời, nghiêm túc vừa phục vụ và thúc đẩy sản xuất, kinh doanh phát triển đúng hướng, đúng chính sách, vừa không gây phiền hà cho cơ sở.

Khi nhận được bản hợp đồng, Uỷ ban nhân dân hoặc trọng tài kinh tế huyện, quận cần xem xét về hai mặt, một mặt xem xét các bên ký kết hợp đồng có tư cách pháp nhân không. Nếu một bên ký kết hợp đồng là tổ hợp tác sản xuất tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp hoặc hộ kinh doanh tư nhân, thì phải xem xét tổ hợp tác và hộ tư nhân này có được phép kinh doanh và có tài khoản ở ngân hàng không, mặt khác xem xét nội dung hợp đồng đã ký có phù hợp với chính sách, luật pháp của Nhà nước không. Đặc biệt đối với hợp đồng gia công, cần chú ý các điều khoản về số lượng, chất lượng đối chiếu với tiêu chuẩn, định mức kinh tế - kỹ thuật làm ra sản phẩm đó, và điều khoản về giá cả.

3. Hợp đồng ký kết giữa các hợp tác xã, tập đoàn sản xuất nông nghiệp, tổ hợp tác sản xuất tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp.

Đối với hợp đồng ký kết giữa các hợp tác xã, tập đoàn sản xuất nông nghiệp, tổ hợp tác tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp trong cùng một huyện, quận, thì ngay sau khi hợp đồng được ký kết, các bên liên quan phải gửi bản hợp đồng đó đến trọng tài kinh tế huyện, quận hoặc Uỷ ban Nhân dân huyện, quận (nơi chưa có trọng tài kinh tế) để đăng ký và theo dõi. Nếu là hai hợp tác xã, tập đoàn sản xuất nông nghiệp, tổ hợp tác sản xuất tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp thuộc hai huyện, quận khác nhau thì hợp tác xã, tập đoàn sản xuất, tổ hợp tác sản xuất là bên cung ứng vật tư, nguyên liệu hoặc bán sản phẩm phải gửi bản hợp đồng đó đến trọng tài kinh tế hoặc Uỷ ban nhân dân huyện, quận nơi mình thuộc quyền quản lý, để đăng ký và theo dõi.

4. Hợp đồng chỉ có hiệu lực thi hành nếu đã đăng ký tại cơ quan trọng tài kinh tế có thẩm quyền hoặc Uỷ ban nhân dân huyện, quận (nơi chưa có trọng tài kinh tế) theo quy định ở các điểm 1, 2, 3 phần IV của Thông tư này.

Khi tiến hành đăng ký hợp đồng phải xem xét, ghi sổ theo dõi, ghi ngày, số đăng ký, và ký tên, đóng dấu trên bản hợp đồng..., nếu phát hiện những sai sót, lệch lạc về ký kết và thực hiện hợp đồng thì trọng tài kinh tế hoặc Uỷ ban nhân dân huyện, quận có liên quan phải thông báo kịp thời và yêu cầu các bên sửa chữa, nếu không thấy có vấn đề gì thì sau khi tiến hành đăng ký, cơ quan trọng tài kinh tế có thẩm quyền hoặc Uỷ ban nhân dân huyện, quận phải gửi trả lại ngay bản hợp đồng đó cho các bên liên quan, chậm nhất là sau 7 ngày kể từ ngày nhận được bản hợp đồng.

Sau này, trong quá trình theo dõi việc thực hiện hợp đồng, nếu phát hiện có những sai sót mới của các bên liên quan trong việc ký kết và thực hiện hợp đồng, thì cơ quan trọng tài kinh tế có thẩm quyền thông báo và yêu cầu các bên sửa chữa. Nếu không chịu sửa chữa hoặc đã mắc những sai sót làm thiệt hại đến tài sản xã hội chủ nghĩa thì cơ quan trọng tài kinh tế sẽ tiến hành xét xử các vi phạm theo đúng pháp luật Nhà nước.

V. TĂNG CƯỜNG QUAN HỆ PHỐI HỢP GIỮA CƠ QUAN TRỌNG TÀI KINH TẾ VỚI CƠ QUAN QUẢN LÝ NGÀNH VÀ CƠ QUAN QUẢN LÝ TỔNG HỢP

Ký kết và thực hiện hợp đồng kinh tế là nhiệm vụ và trách nhiệm thường xuyên của các đơn vị cơ sở. Để giúp đỡ đơn vị cơ sở tháo gỡ những vướng mắc, khó khăn trong sản xuất cũng như trong việc ký kết và thực hiện hợp đồng, góp phần bảo đảm hoàn thành kế hoạch Nhà nước, thì cần tăng cường quan hệ phối hợp giữa cơ quan trọng tài kinh tế với cơ quan quản lý ngành và cơ quan quản lý tổng hợp trên các mặt sau đây:

1. Sau khi có số hướng dẫn và chỉ tiêu pháp lệnh, cơ quan trọng tài kinh tế phối hợp với cơ quan quản lý liên quan để hướng dẫn, kiểm tra việc ký kết và thực hiện hợp đồng kinh tế ở các đơn vị cơ sở. Việc hướng dẫn, kiểm tra này nhằm trước hết vào những hợp đồng sản xuất ra những sản phẩm trọng yếu của nền kinh tế quốc dân, của ngành hoặc của địa phương.

Trong quá trình thanh tra, kiểm tra, nếu phát hiện những vướng mắc, khó khăn, cơ sở không tự giải quyết được mà cần có sự chỉ đạo của cơ quan cấp trên, thì trọng tài kinh tế kiến nghị với cơ quan đó để có biện pháp giải quyết kịp thời. Mặt khác cơ quan quản lý cấp trên thông báo cho cơ quan trọng tài kinh tế biết những chủ trương và biện pháp quản lý của ngành liên quan đến việc thực hiện kế hoạch và hợp đồng ở cơ sở để có sự phối hợp chặt chẽ.

Khi xảy ra tranh chấp và vi phạm hợp đồng, theo yêu cầu của trọng tài kinh tế, cơ quan quản lý cấp trên có liên quan cần cung cấp những tài liệu, chứng cứ cần thiết phục vụ cho công tác xét xử.

2. Các cơ quan trọng tài kinh tế cần phối hợp với các cơ quan quản lý tổng hợp (kế hoạch, tài chính, ngân hàng, vật giá) trong việc giải quyết các vướng mắc, khó khăn được phát hiện qua khâu ký kết và thực hiện hợp đồng.

Nếu vụ tranh chấp và vi phạm hợp đồng liên quan đến công tác nghiệp vụ của cơ quan quản lý tổng hợp nào, thì cơ quan quản lý tổng hợp đó phải đề xuất biện pháp giải quyết theo chức năng nhiệm vụ của mình, còn trọng tài kinh tế đứng về mặt bảo đảm tính pháp lý và kỷ luật của hợp đồng kinh tế sẽ xét xử vụ tranh chấp và vi phạm hợp đồng theo các quy định của Nhà nước về chế độ hợp đồng kinh tế.

Trên đây là những điều hướng dẫn thi hành Nghị quyết số 156-HĐBT ngày 30-11-1984 và Quyết định số 162-HĐBT ngày 14-12-1984 của Hội đồng Bộ trưởng.

Các đồng chí Bộ trưởng, Chủ nhiệm Uỷ ban Nhà nước, Thủ trưởng các cơ quan khác thuộc Hội đồng Bộ trưởng, Chủ tịch Uỷ ban nhân các tỉnh, thành phố và đặc khu trực thuộc Trung ương khi phổ biến thi hành các nghị quyết, quyết định của Hội đồng Bộ trưởng cần chỉ đạo làm quán triệt và thực hiện Thông tư này của Trọng tài kinh tế Nhà nước đến các xí nghiệp, cơ quan, đơn vị trực thuộc.

Yêu cầu các đồng chí Chủ tịch Trọng tài kinh tế các Bộ, tổng cục, tỉnh, thành phố và đặc khu trực thuộc Trung ương có kế hoạch tổ chức nghiên cứu, quán triệt nghị quyết, quyết định của Hội đồng Bộ trưởng và Thông tư hướng dẫn này, và đề ra biện pháp cụ thể để thi hành trong ngành hoặc địa phương.

 

Tô Duy

(Đã ký)

 

Đã xem:

Đánh giá:  
 

Thuộc tính Văn bản pháp luật 4-PC/TT

Loại văn bảnThông tư
Số hiệu4-PC/TT
Cơ quan ban hành
Người ký
Ngày ban hành16/02/1985
Ngày hiệu lực03/03/1985
Ngày công báo15/04/1985
Số công báoSố 6
Lĩnh vựcBộ máy hành chính, Thương mại
Tình trạng hiệu lựcKhông còn phù hợp
Cập nhật16 năm trước
Yêu cầu cập nhật văn bản này

Lược đồ Thông tư 4-PC/TT tổ chức hoạt động liên kết trong kinh tế hướng dẫn Nghị quyết 156-HĐBT cải tiến quản lý công nghiệp quốc doanh Quyết định 162-HĐBT


Văn bản bị sửa đổi, bổ sung

    Văn bản liên quan ngôn ngữ

      Văn bản sửa đổi, bổ sung

        Văn bản bị thay thế

          Văn bản hiện thời

          Thông tư 4-PC/TT tổ chức hoạt động liên kết trong kinh tế hướng dẫn Nghị quyết 156-HĐBT cải tiến quản lý công nghiệp quốc doanh Quyết định 162-HĐBT
          Loại văn bảnThông tư
          Số hiệu4-PC/TT
          Cơ quan ban hànhTrọng tài kinh tế Nhà nước
          Người kýTô Duy
          Ngày ban hành16/02/1985
          Ngày hiệu lực03/03/1985
          Ngày công báo15/04/1985
          Số công báoSố 6
          Lĩnh vựcBộ máy hành chính, Thương mại
          Tình trạng hiệu lựcKhông còn phù hợp
          Cập nhật16 năm trước

          Văn bản thay thế

            Văn bản được dẫn chiếu

              Văn bản hướng dẫn

                Văn bản được hợp nhất

                  Văn bản được căn cứ

                    Văn bản hợp nhất

                      Văn bản gốc Thông tư 4-PC/TT tổ chức hoạt động liên kết trong kinh tế hướng dẫn Nghị quyết 156-HĐBT cải tiến quản lý công nghiệp quốc doanh Quyết định 162-HĐBT

                      Lịch sử hiệu lực Thông tư 4-PC/TT tổ chức hoạt động liên kết trong kinh tế hướng dẫn Nghị quyết 156-HĐBT cải tiến quản lý công nghiệp quốc doanh Quyết định 162-HĐBT

                      • 16/02/1985

                        Văn bản được ban hành

                        Trạng thái: Chưa có hiệu lực

                      • 15/04/1985

                        Văn bản được đăng công báo

                        Trạng thái: Chưa có hiệu lực

                      • 03/03/1985

                        Văn bản có hiệu lực

                        Trạng thái: Có hiệu lực